Ngày nay, Kitô giáo được loan truyền khắp thế giới và Công Đồng Vaticanô II mong muốn mỗi dân tộc diễn tả đức tin theo truyền thống văn hóa riêng của mình. Vậy tại sao không thích nghi bữa tiệc Thánh Thể với bữa ăn truyền thống của mỗi dân tộc?
Bánh miến (làm bằng bột mì) và rượu nho có vẻ quá gắn bó với nền văn hoá Cận Đông và Tây Phương. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu là người Do thái, chính Người đã dùng bánh miến và rượu nho để lập phép Thánh Thể.
Dùng bánh miến và rượu nho cũng là một cách để nhớ lại rằng Thiên Chúa đã đi vào Lịch Sử. Mạc khải Kitô giáo đã được thực hiện trong một nơi chốn rõ rệt và một thời điểm nhất định. Khi chúng ta tuân theo huấn lệnh của Chúa Giêsu “Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy”, chúng ta phải để ý đến những điều kiện cụ thể này của việc Người nhập thể.
Đàng khác, chúng ta đừng quên biểu tượng phong phú của bánh miến và rượu nho trong Kinh Thánh, thí dụ:
° “Thầy là bánh hằng sống” (Gioan 6,35.48). “Thầy là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời” (Gioan 6,51). (Bánh ở đây phải hiểu là bánh miến).
° “Thầy là cây nho thật” (Gioan 15,1). “Thầy là cây nho, các con là ngành nho...” (Gioan 15,5).
“Bánh miến” và “cây nho” là hai đề tài rất thường gặp trong Kinh Thánh.
Do đó, hai thứ thực phẩm này, hơn hẳn mọi thứ khác, nêu bật ý nghĩa về mối giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người, được đóng ấn trong Đức Giêsu Kitô và được cử hành trong mỗi thánh lễ.
(Trích từ tập sách "40 CÂU HỎI VỀ THÁNH LỄ" của Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)
Trích: http://tgpsaigon.net/hoi-dap/20111214/13910